Thế giới này hằng ngày từng xảy ra biết bao nhiêu điều kỳ quặc. Nhưng
dù có kỳ quặc đến đâu rồi người ta cũng sẽ lý giải được nó.
Nhưng có điều kỳ quặc lạ lùng mà hơn 30 năm qua người ta không thể hiểu và lý giải được.
Điều kỳ quặc ấy nằm ở chính cộng đồng người Việt ở hải ngoại. Trong
cộng đồng tha hương này, nổi lên những phần tử cặn bã mà người ta đến
nay người ta vẫn chưa biết đặt tên chính xác cho chúng là gì.
Chúng là người Việt Nam nhưng chúng không bao giờ muốn đất nước của
chúng mạnh lên. Mong ước của chúng là quê hương chúng mãi mãi lầm than
đói khổ để chúng còn lý do, còn danh nghĩa để mà đi chống Cộng.
Chúng luôn mong quân đội ngoại bang xâm lược, chiếm đóng đất nước
chúng để lật đổ chính quyền mà chúng thù ghét, và cũng để chúng tham gia
đánh ké. Nghe tin quê hương bị xâm lăng là lòng chúng như mở cờ, chúng
vui như trẩy hội, vì có thêm 1 vụ để chửi VC. Chúng chỉ mong có ngày
quân giặc chiến thắng để chúng theo đóm ăn tàn.
Chúng lồng lộn ngăn cản đồng hương của chúng mua hàng của chính đồng
bào của chúng ở quê hương chúng làm ra bằng giọt mồ hôi của họ. Chúng
tấn công đồng bào và những nghệ sĩ Việt chỉ vì họ muốn về thăm quê.
Chúng quyết liệt ngăn cản đồng hương của chúng gửi tiền về quê nhà
giúp người thân ruột thịt với những phong trào “không gởi tiền về VN làm
giàu cho VC”.
Chúng chống đối những nghệ sĩ từ quê hương chúng đến để phục vụ đồng bào mình ở xứ người.
Chúng điên tiết, cay cú, nổi khùng lên khi thấy đất nước của chúng
ngày càng thịnh vượng, chúng như điên như cuồng khi các nước trên thế
giới càng ngày càng kính trọng đất nước chúng.
Chúng nó tìm mọi cách phá hoại để đất nước chúng nó không vào đuợc
WTO, nghĩa là chúng nó muốn dân nó suốt đời đói nghèo lạc hậu, không hội
nhập được.
Chúng nó hô hào chống lại việc đất nước chúng nó được thế giới tín
nhiệm vào Hội Đồng Bảo An Liên Hiệp Quốc. Chúng mong đất nước chúng muôn
đời nhược tiểu, vô danh tiểu tốt, không ai biết đến.
Nhưng chúng lại rất miệt mài chăm chỉ vạch lá tìm sâu, bới móc những
khiếm khuyết của đất nước chúng để chửi bới, lăng mạ, nguyền rủa, gào rú
điên loạn.
Ngay cả đồng hương chúng nó trên đất người này, nếu có ai ngợi ca sự
phát triển của quê hương ngợi ca những điều tốt đẹp của quê hương chúng
là chúng tìm cách bóp cổ bịt miệng, biểu tình chống phá.
Chúng đem chất nổ vào quê nhà của chúng, âm mưu đặt chất nổ khủng bố
các lãnh sứ quán VN. Mưu đồ gây rối loạn, bất ổn tình hình xã hội của Tổ
quốc chúng.
Chúng xuyên tạc tình hình quốc gia chúng, và nài nỉ, khóc lóc, mếu
máo, xin xỏ với quan thầy để cô lập, cấm vận, tuyệt giao với nước của
chúng, không còn quan hệ ngoại giao với nước của chúng.
Chúng tuyên truyền, xuyên tạc, nói xấu đất nước chúng, bôi đen bôi
bẩn bôi nhọ đất nước chúng. Chúng kêu gào đòi đồng hương chúng không
được về làm ăn ở đất nước của chúng. Không được về VN, không được về VN
kinh doanh, đầu tư. Chúng bịa đặt ra những thông tin tiêu cực và thổi
phồng lên những tiêu cực có sẵn, 1 nói làm 10, để tạo cảm giác sợ hãi
lên đồng hương của chúng, làm cho họ sợ thất bại, nghi ngờ, mà bỏ dự
tính về VN làm ăn.
Nhưng chúng nó lại hết đội lốt thầy tu, đội lốt tôn giáo rồi lại đội
lốt dân chủ, đội lốt nhân quyền, đội lốt tự do. Chúng tự xưng là những
“nhà bất đồng chính kiến”. Chúng tự phong cho chúng là những “nhà đấu
tranh dân chủ”. Chúng mạo xưng, mạo danh dân chủ, tự nhận mình là “dân
chủ”. Trong khi chính chúng nó mới là những kẻ phá hoại dân chủ, phản
dân chủ, phi dân chủ, chống dân chủ, độc tài trong chính cộng đồng của
chúng. Chúng mạo nhận là những nhân vật đang “đấu tranh nhân quyền”, là
những “nhà dân chủ”, “nhà hoạt động dân chủ”, “hoạt động nhân quyền”.
Chúng lợi dụng dân chủ, nấp bóng nhân quyền, nấp trong vỏ bọc và chiêu
bài “tự do” để mà quậy phá đất nước. Chúng nấp dưới bình phong “dân chủ”
để phá làng phá xóm. Chúng lạm dụng danh nghĩa “nhân quyền” để phá hoại
đất nước, nhận tiền của nước ngoài, thông đồng với ngoại bang, toa rập
với các thế lực bên ngoài, mưu đồ bất chính, dụng ý hèn hạ muốn phá hoại
đất nước.
Người ta sẽ không bao giờ hiểu nổi tại sao chúng lại hành xử như thế,
vì trên thế giới này không có sinh vật nào hành xử giống như chúng.
Có thể người ta sẽ nghĩ đến là chúng là bọn dở hơi, hay chúng nó
điên, nhưng không, chúng không phải là những kẻ điên, chúng nó vẫn rất
tỉnh táo, rất tinh ranh, rất gian manh, rất ba que xỏ lá. Chúng là những
kẻ lừa đảo chuyên nghiệp, có vô số cách lừa gạt đồng hương để lấy tiền
chống lại quê hương chúng. Chúng rất biết nịnh bợ những ai từng là kẻ
thù của đất nước chúng để chúng bợ đỡ cúi lòn mà chống lại quê hương
chúng. Chúng rất biết kích động, khích bác, dụ dỗ những người bất mãn
trong nước để đi theo chúng chống lại quê hương của chúng, tự biến mình
thành công cụ của chúng để chống lại quê cha đất tổ.
Người ta lại nghĩ thế thì chắc chúng không phải là người Việt Nam?
Cũng không. Chúng vẫn mang trong nguời dòng máu Việt chúng vẫn chửi quê
cha đất tổ của chúng bằng tiếng mẹ đẻ của mình.
Như thế đích thị chúng là tay sai của kẻ thù Việt Nam rồi? Cũng không
nốt, dù đúng là chúng rất thèm, rất muốn, rất ao ước để được làm tay
sai của ngoại bang, nhưng chẳng còn thằng thực dân đế quốc nào thèm nhận
chúng làm tay sai nữa vì chúng vừa bất tài lại vừa bất nhân bất nghĩa.
Cuộc đời chúng từng là những chuỗi ngày làm tay sai, làm Việt gian, với
“truyền thống” và “thành tích” đánh thuê nhiều đời. Nhưng cái vai trò
tay sai, nô lệ mà chúng từng xem là nghề kiếm sống cũng đã thất sủng từ
lâu rồi.
Trong đầu chúng nó không hề có quê hương không hề có đồng bào và
không hề có Tổ quốc. Tất cả chúng nó đã vứt bỏ từ ngày chúng qua đây.
Chúng vinh danh cái “Tổ quốc VNCH” của chúng do chúng tưởng tượng ra,
không hề hiện hữu và không hề thực tế.
Chỉ có một cái mà chúng không thể vứt bỏ đi đựợc là tiếng nói của
chúng. Chúng không vứt bỏ đi không phải vì chúng yêu thương gì tiếng mẹ
đẻ. Mà vì chúng không có khả năng, không đủ trình độ tiếng Anh để chửi
được đồng bào và quê hương chúng bằng tiếng Anh, thế thôi. Qua đây đã
hơn 30 năm rồi nhưng chúng rất dốt tiếng Anh. Chúng không có khả năng
Anh văn để đọc báo Mỹ, nên suốt ngày phải kiếm báo lá cải tiếng Việt
miễn phí mà đọc, và chúng đã tự nhồi sọ, tự tẩy não (brainwash) lẫn nhau
qua những tờ báo lá cải miễn phí, chửi bới một chiều này.
Mọi người hãy giải thích đi? Có dân tộc nào trên thế giới có loại
động vật nào quái đản như lũ này? Có sinh vật nào gọi là con người mà
lại làm như vậy?
Một ngày kia khi xuất hiện trên đường phố một lũ sinh vật cầm cờ ba
que điên cuồng hò hét, chửi thề bằng tiếng Anh và giơ cao những biểu ngữ
“Freedom of Religion for Vietnam”, “Democracy for Vietnam”, “Human
rights for Vietnam”, “Down the communist”, “No communist in Bolsa” v.v.,
thì người ta cũng không lấy làm ngạc nhiên là bởi đến ngày ấy bọn này
đã vứt đi cái cuối cùng trong người là tiếng mẹ đẻ. Chúng đã vì quá căm
thù Việt Nam mà đã hóa cuồng, lệch lạc về tâm lý, biến thái, bệnh hoạn
về tinh thần.
Hơn ba mươi năm qua người ta vẫn chưa tìm ra cái tên đích thực để gọi
“CHÚNG NÓ LÀ GIỐNG GÌ”. Lũ sinh vật chưa được đặt tên này đã tiến đến
cái ngưỡng của bệnh điên cuồng mà người ta hay gọi là bệnh chống Cộng
thời kỳ cuối. Trong mồm chúng chất đầy tiếng chửi rủa, chất đầy những ý
tưởng cặn bã thối tha đê hèn nhất để sẵn sàng tuôn ra khi có dịp. Trong
đầu óc chúng chứa đầy những ý nghĩ điên rồ, cuồng loạn, mà không ai có
thể hiểu được.
Những người bị chúng nó chửi là ai? Chỉ là những người biết yêu quê
hương của chúng, những người đã xả thân vì đồng bào chúng, những đã hy
sinh xương máu cho dân tộc chúng, những người đã mang về hòa bình, độc
lập, thống nhất, ổn định, tự do, dân chủ, nhân quyền, và phát triển cho
đất nước chúng. Những người đã và đang góp sức đưa đất nước chúng đi
lên.
Nếu muốn nhận diện chúng, muốn lôi đầu chúng ra, người ta chỉ cần ca
ngợi quê hương của chúng, chỉ cần ca ngợi đồng bào chúng đang sống trong
cảnh thanh bình. Chỉ bấy nhiêu thôi cũng đủ để chúng nổi khùng lên và
phát bệnh cuồng. Đó mới là điều kỳ quặc, những nghịch lý mà chỉ có trong
những con quái thú thích tự phong cho mình những danh hiệu tự sướng như
“nhà dân chủ”, “nhà đấu tranh nhân quyền”, “chiến sĩ tự do”, “freedom
fighter”, chủ tịch này lãnh tụ nọ.
Những kẻ chửi bới đất nước chúng, lập tức chúng xem ngay là bạn tâm
giao, dù kẻ đó là ai đi nữa. Chúng không hề giấu giếm điều này, chúng
hãnh diện đứng về phía những kẻ này. Hãy thử đi mà xem, hãy thử post lên
đây vài lời chê bai đất nước, hãy thử cắt dán những bài báo nêu những
mặt trái của xã hội VN, quê mẹ của chúng, ngay lập tức chúng sẽ hùa theo
và vơ ngay làm bạn, làm “chiến hữu”. Diễn đàn này là một hình ảnh thu
nhỏ để mọi người thấy rất rõ chúng là ai, và bản chất chúng là gì.
Khi có người “dám” ca ngợi quê hương chúng, có ai đứng về phía quê
hương phê bình chúng, chúng lập tức nhảy xổ ra cả đàn rất hung hãn,
nhưng không có gì khác, vẫn chỉ có những lời chửi bới hoặc những lời
“tranh luận” trẻ con mà chúng đã tụng niệm thuộc lòng với nhau. Đó là
bản chất của cuộc sống bầy đàn hoang dã xưa nay của chúng.
Chúng không thể cắn xé được ai chúng thừa biết điều này, nhưng chúng
cũng làm được điều chúng mong đợi là gây ô nhiễm môi trường công cộng.
Lắm lúc chúng giả danh người lương thiện, ngụy quân tử, đạo đức giả,
mặc vào chiếc áo người lương thiện, nhưng lại để chửi đổng quê hương
chúng, chửi đổng những người lương thiện. Quá dễ để nhận diện ra chúng
vì người lương thiện thật sự, người chân chính thì không ai làm điều
này. Chỉ cần cái mùi phản động, phản quốc toát ra từ chúng thì người ta
đã nhận ngay được chúng từ xa rồi.
Chúng không có gì cả ngoài những câu chửi đổng, cào mặt ăn vạ, hoặc
những khẩu hiệu rẻ tiền, những luận điệu tuyên truyền bồi bút 3 xu mà
mọi người hay gọi là “văn nô Vichócô”. Những lời lẽ chửi đổng, chửi
loạn, kêu gào đã được lập trình sẵn trong đầu chúng lập tức tuôn ra như
là một phản xạ tự nhiên khi nghe thấy những lời ca ngợi quê hương chúng,
khen ngợi quê cha của chúng.
Chúng ta có thể dễ dàng thực nghiệm điều này giống như thí nghiệm của
Ivan Pavlov đã thực nghiệm với loài chó vào thập niên 1890. Kết quả nó
giống y như khuôn đúc. Không có lần nào là ngoại lệ cả. Thậm chí trong
cộng đồng mạng có một số người có thú vui giải trí là hay đi tìm bọn này
để “chọc chó sủa” cho vui.
Đặc điểm chung của bọn chúng vẫn không thay đổi: Mồm to gan nhỏ. Trên
mạng thì chúng chửi bới chống phá rất hung hăng bọ xít, rất to mồm
không ai bằng, nhưng ngoài đời gặp VC thứ thiệt thì bảo đảm không ai có
thể chạy nhanh hơn chúng đâu, vì chúng nối tiếp “truyền thống” chạy
nhanh của cha anh chúng năm 1975 mà. Đôi khi có một số người bịt mũi
tránh chúng vì chúng có cái mồm rất to sặc mùi xú uế và vì họ không muốn
dây với hủi. Nhưng chúng lại cứ tưởng là “mình đã chiến thắng trong
tranh luận”.
S.T.
Chúng nó là giống gì?

Ý nghĩa lịch sử của ngày 30/4/1975
Chữ viết của một người dân Sài Gòn vào tờ lịch ngày 30/4 lịch sử
Ngày
toàn thắng 30/4 là một ngày hội non sông, là một đại lễ, một ngày hội
lớn của dân tộc. Đây là một ngày có những ý nghĩa lịch sử trọng đại, bao
gồm nhiều bài học lịch sử quan trọng. Đây là ngày giải phóng hoàn toàn
miền Nam, giải phóng nốt những vùng tạm chiếm còn lại ở miền Nam Việt
Nam, thống nhất đất nước. Đây là ngày toàn thắng trước giặc Mỹ xâm lược,
hoàn toàn đánh bại cuộc chiến tranh phi nghĩa của Mỹ ở Việt Nam, đánh
bại chiến lược chiến tranh cuối cùng của Mỹ ở Việt Nam (Phi Mỹ hóa -
Việt Nam hóa chiến tranh, De-Americanization, Vietnamization, thay màu
da trên xác chết, dùng người Việt đánh người Việt).
Ngày này cũng
mang nhiều ý nghĩa và bài học về tinh thần đại đoàn kết dân tộc, về
tinh thần đề cao cảnh giác với người láng giềng phía Bắc, về chủ quyền
lãnh thổ trên Biển Đông, về công tác địch vận, binh vận, kể cả trong
nhóm chóp bu có chức vụ cao nhất của địch, và nhất là ý nghĩa về sự
thống nhất quốc gia dân tộc sau hàng trăm năm chiến tranh và chia rẽ,
chia ly, chia cắt. Bài viết này xin được nói sâu hơn về một số vấn đề mà
chính sử và truyền thông chính thống ít nhắc tới hoặc chưa được trình
bày sâu sát.
Nữ biệt động Sài Gòn dẫn đường cho các đoàn xe Quân Giải phóng miền Nam Việt Nam tiến vào nội đô
Chiến
dịch Mùa xuân 1975 bắt đầu từ trận Phước Long, là trận đánh trinh sát
chiến lược, đến 3 "chiến dịch trong chiến dịch" liên tiếp nhau: Chiến
dịch Tây Nguyên, chiến dịch Huế - Đà Nẵng, và sau cùng là chiến dịch Hồ
Chí Minh lịch sử. Ngoài ra còn có những chiến dịch nhỏ hơn, diễn ra trên
những địa bàn chiến lược như Long Khánh - Xuân Lộc, Trường Sa và các
đảo trên Biển Đông, các trận đánh trên các tuyến phòng thủ từ xa như Tây
Ninh - An Lộc - Dầu Tiếng, Phan Rang - Ninh Thuận, và các đợt tiến công
quét sạch Khmer đỏ ra khỏi bờ cõi mà trước đó họ đã "đục nước béo cò"
khi vào đóng giữ những nơi mà quân ngụy Sài Gòn đào ngũ, tan hàng rã
ngũ, trốn chạy. Chiến dịch Hồ Chí Minh đã dẫn đến kết quả là chấm dứt
hoàn toàn sự chia cắt đất nước của ngoại bang, đưa đến việc thống nhất
đất nước, xã hội, chính trị, dân cư.
Trước đó, nhà báo nổi tiếng
Neil Sheehan của tờ New York Times đã nói: "Sau những năm dài tìm cách
khuất phục những dân tộc nghèo khổ bằng sự tàn bạo của sức mạnh kỹ thuật
của mình, nước Mỹ, một nước giàu mạnh nhất trên quả đất này, cuối cùng
có thể bị những người cộng sản Việt Nam đuổi ra khỏi bán đảo Đông Dương.
Nếu đúng như vậy, thì thắng lợi của người Việt Nam sẽ là một thí dụ vô
song về sự toàn thắng của trí tuệ con người đối với máy móc."
Chỉ
trong vòng 55 ngày, chiến dịch Mùa xuân đã đuổi người quân nhân Mỹ cuối
cùng ra khỏi Việt Nam và đánh sập ngụy quyền Sài Gòn, đây là một trong
những chiến dịch thần tốc nhất trong chiến sử thế giới, một trong những
sự sụp đổ nhanh nhất trong lịch sử thế giới, và sự tháo chạy hỗn loạn,
vô trật tự, vô nguyên tắc, vô tổ chức, và vô kỷ luật nhất trong quân sử
thế giới. Nguyên nhân chủ yếu là vì Mỹ đã cắt giảm viện trợ quân sự
xuống chỉ còn hơn 700 triệu USD (tương đương với khoảng 4,6 tỷ USD ngày
nay). Tiến sĩ kinh tế Nguyễn Tiến Hưng, cựu Tổng trưởng Kế hoạch và Phát
triển của chế độ Sài Gòn, giáo sư đại học Harvard tại Mỹ trong sách "Từ
tòa Bạch Ốc đến dinh Độc Lập" đã đưa ra nhiều thông tin gián tiếp cho
thấy sự sinh tồn của ngụy quyền Sài Gòn hoàn toàn phụ thuộc vào sự nuôi
dưỡng, cưu mang của chính phủ Hoa Kỳ, cụ thể bản báo cáo mà Nguyễn Văn
Thiệu đã đọc:
"Nếu mức viện trợ quân sự là 1,4 tỷ USD thì có thể giữ được các vùng đông dân cư tại bốn vùng chiến thuật.
Nếu mức viện trợ quân sự xuống 1,1 tỷ USD thì có thể không giữ được Quân khu I.
Nếu mức Viện trợ quân sự còn 900 triệu USD thì khó giữ được Quân khu I, Quân khu II.
Nếu viện trợ quân sự chỉ còn 750 triệu USD thì chỉ có thể phòng thủ một vài khu vực.
Nếu viện trợ quân sự chỉ còn 600 triệu USD thì chỉ còn có thể giữ được Sài Gòn và vùng châu thổ sông Cửu Long."
Cũng
theo tiến sĩ Nguyễn Tiến Hưng, có lúc Nguyễn Văn Thiệu đã ngậm cay nuốt
đắng "than thân trách phận" với một dân biểu Mỹ rằng: "Mới vài ngày
trước đây là một tỷ, bây giờ còn 700 triệu, tôi làm gì được với số tiền
này? Như là chuyện cho tôi 12 đô la và bắt tôi mua vé máy bay hạng nhất
từ Sài gòn đi Tokyo." Sau đó, ông Thiệu phái ông Nguyễn Tiến Hưng đi xin
thêm tiền và sau này thuật lại trong quyển sách trên, tiến sĩ Nguyễn
Tiến Hưng đã ví việc này với "cái nhục của kẻ đi cầu xin".
Chiến dịch Trường Sa và các đảo trên Biển Đông
Đứng
trước thực tế Trung Quốc đã dè chừng và dồn quân phòng thủ Hoàng Sa,
đồng thời lăm le cho hải quân, cùng có hành động như lực lượng hải quân
của Đài Loan, Indonesia, Philippines, Malaysia âm mưu xâm chiếm các hòn
đảo thuộc quần đảo Trường Sa một khi quân ngụy Sài Gòn giải tán. Hải
quân Nhân dân Việt Nam đã khẩn trương triển khai chiến dịch Trường Sa và
các đảo trên Biển Đông, để giải phóng hoặc tiếp quản thật nhanh những
vùng này trước khi Trung Quốc và các nước ngoài "đục nước béo cò".
Chiến
dịch Trường Sa và các đảo trên Biển Đông là một phần của Chiến dịch Mùa
xuân năm 1975, là một chiến dịch không lớn nhưng có ý nghĩa quan trọng
về chủ quyền lãnh thổ của Việt Nam. Chiến dịch diễn ra trong thời gian
từ tháng 4 đến tháng 6 năm 1975. Mục tiêu chiến dịch nhằm vào các đảo
trên quần đảo Trường Sa và các đảo ven biển miền Nam Việt Nam mà quân
ngụy Sài Gòn đang đồn trú và một số đảo do quân Khmer đỏ đánh chiếm từ
tay quân ngụy Sài Gòn từ trước.
Ý thức được một thực tế là lực
lượng hải quân lúc đó chưa đủ sức giải phóng Hoàng Sa từ tay Trung Quốc,
nhất là biết Trung Quốc đã đề phòng trước, nên hải quân Việt Nam đã tập
trung giải phóng Trường Sa từ tay Mỹ-Thiệu, chủ yếu bằng phương pháp
địch vận, binh vận, ngụy vận, thuyết phục địch quy hàng để "bất chiến tự
nhiên thành", hy vọng những chiến thắng dồn dập ở đất liền sẽ góp phần
thuyết phục địch đầu hàng và giải phóng được quần đảo.
Theo các
tác giả Nguyễn Văn Đấu, Dương Thảo, Đặng Văn Tới trong sách "Bộ Tham mưu
Hải quân - Biên niên sự kiện (1959-2004)", NXB Quân đội nhân dân xuất
bản năm 2004, thì ngày 9 tháng 4 năm 1975, đài trinh sát kỹ thuật của
Quân đội Nhân dân Việt Nam cướp được bức điện của lính ngụy đồn trú trên
đảo Nam Yết gọi về đất liền yêu cầu tăng viện và điện trả lời của Bộ
Tổng tham mưu ngụy với nội dung: "Không có lực lượng tăng viện". Nhận
được tin này, Quân ủy Trung ương QĐNDVN điện cho Bộ tư lệnh tiền phương
quân chủng Hải quân đặt tại Đà Nẵng: "Có tin đối phương chuẩn bị rút
khỏi các đảo ở Trường Sa. Kiểm tra lại ngay và chỉ thị cho lực lượng
hành động kịp thời theo phương án đã định. Nếu để chậm, có thể quân đội
nước ngoài chiếm trước, vì hiện nay một số nước ngoài đang có ý đồ xâm
chiếm."
Sau khi khoảng 2.000 quân ta mai phục trong các tàu
đánh cá trá hình đã đột kích bất ngờ vào Trường Sa và tổ chức nổi dậy ở
Côn Đảo, trong đánh ra - ngoài đánh vào hải quân ngụy và quân Khmer đỏ,
một bộ phận lớn quân ngụy đã đầu hàng, nhưng trong đó có một số vẫn
ngoan cố chống cự. Kết quả là quân ta có 10 người thương vong. Quân ngụy
có 187 người thương vong, 557 người bị bắt sống. Quân ta cũng loại khỏi
vòng chiến 284 tên Khmer đỏ và bắt sống hơn 400 tên khác. Sở dĩ có sự
chênh lệch khá lớn giữa số lượng thương vong như vậy là vì địch bị bất
ngờ, và những người lính hải quân ngụy đóng ở các đảo đa phần là những
người đút lót để được ra đó để tránh phải đánh trận, gọi là "lính
kiểng", họ có năng lực chiến đấu kém và không có tinh thần chiến đấu,
nhất là với những tin tức thất thủ dồn dập đến từ đất liền. Còn quân
Khmer đỏ thì không quen thủy chiến và tác chiến trên biển đảo và hời hợt
không có sự chuẩn bị từ trước. Yếu tố bất ngờ và yếu tố tinh thần đã
làm nên chiến thắng tuyệt đối này.
Đánh đuổi Khmer đỏ
Tuy
không nằm trong kế hoạch chiến dịch Hồ Chí Minh nhưng các hoạt động
đánh đuổi quân Khmer đỏ ra khỏi các vùng đất liền Việt Nam ở Tây Nam Bộ
bị họ lấn chiếm cũng là một trong các hoạt động quân sự để chiến dịch
này có được kết quả hoàn chỉnh, bảo vệ vững chắc lãnh thổ Việt Nam.
Ngay
sau khi ngụy quân tại đồng bằng sông Cửu Long tan rã và đầu hàng Mặt
trận, từ ngày 3 đến ngày 12 tháng 5 năm 1975, chính quyền Khmer đỏ đã
lợi dụng khoảng trống quyền lực tại các địa phương trên khu vực biên
giới giữa các tỉnh Hà Tiên, Châu Đốc của Việt Nam với các tỉnh Takeo và
Campot của Campuchia, sử dụng quân chính quy mở các cuộc tấn công lấn
chiếm nhiều địa điểm của Việt Nam. Đặc biệt là khu vực Ba Chúc (huyện
Tri Tôn), Phú Cường, Phú Hiệp (huyện Tịnh Biên), thị xã Châu Đốc, huyện
lỵ An Phú; quân Khmer đỏ đã sát hại trên 500 thường dân Việt Nam, kể cả
một số cựu quân nhân Sài Gòn đã buông súng, đào ngũ; bắn vào những Việt
kiều từ Campuchia chạy trốn khỏi chế độ Khmer đỏ về Việt Nam. Tại Tây
Ninh, quân Khmer đỏ cũng tấn công lấn chiếm nhiều địa điểm tại Xa Mát,
Ta Nốt, Lò Gò (huyện Tân Biên), Phước Thạnh, Phước Tân, (huyện Châu
Thành), Cây Me, Mộc Bài (huyện Bến Cầu) sát hại hàng trăm thường dân
Việt Nam.
Song song với các chiến dịch chiếm lại các đảo Phú
Quốc, Thổ Chu, Polovai, quần đảo Nam Du trên Vịnh Thái Lan. Bộ tư lệnh
Quân khu 9 đã sử dụng sư đoàn 4 bộ binh được tăng cường trung đoàn hải
quân đánh bộ 101 từ Bộ tư lệnh hải quân mở cuộc tấn công mạnh mẽ vào
quân Khmer đỏ. Ngày 7 tháng 5, giải phóng Châu Đốc. Đến đầu tháng 6, các
đơn vị này đã giải phóng toàn bộ khu vực biên giới thuộc tỉnh An Giang
bị quân Khmer đỏ lấn chiếm; loại khỏi vòng chiến đấu một tiểu đoàn quân
chính quy Khmer đỏ, thu giữ một khẩu pháo 105 mm, hai khẩu cối 82 và 60
mm, tám đại liên 12,7 mm, hơn 40 súng bộ binh các loại. Sau khi giành
lại chủ quyền lãnh thổ, các đơn vị này đã tổ chức rào dây thép gai trên
40 km đường biên giới và bố trí phòng thủ tại chỗ đề phòng quân Khmer đỏ
tiếp tục lấn chiếm.
Mưu sâu của Trung Quốc và tấm gương Dương Văn Minh
Dương
Văn Minh là một tướng lĩnh đã từng phục vụ dưới quyền của Pháp lẫn Mỹ,
nhưng sau đó được em trai mình là đại tá QĐNDVN Dương Thanh Nhựt, bí
danh Mười Ty “ngụy vận” và cảm hóa được ngay từ đầu. Năm 1963, trong lúc
Mỹ muốn "thay ngựa giữa dòng", lật Diệm, còn Mặt trận thì cũng muốn
diệt Diệm vì gia đình này quá độc tài tàn bạo. Thế là cách mạng cũng
tương kế tựu kế và “thuận nước đẩy thuyền”, ủng hộ Dương Văn Minh làm
theo ý Hoa Kỳ. Dương Văn Minh cũng không từ chối đảo chính Diệm vì ông
ta có tinh thần dân tộc và còn là một Phật tử sùng đạo, mắt thấy gia
đình Diệm đàn áp đạo Phật dã man và “Đảng Cần Lao” lộng hành, tàn ác, xã
hội không có tự do tín ngưỡng, thì tất nhiên là muốn lật Diệm.
Một
thời gian sau, năm 1964, Mỹ nhận ra là họ không thể dùng được Dương Văn
Minh, họ không tin dùng ông nữa và ông bị cho "ngồi chơi xơi nước". Mỹ
làm cuộc đảo chính đưa “tướng râu dê” Nguyễn Khánh lên. Tướng Nguyễn
Khánh sau khi lên thì độc tài quân phiệt không kém Diệm, và bị chống đối
quyết liệt, nhất là sau khi hiến chương Vũng Tàu ra đời, thanh niên và
sinh viên miền Nam rầm rộ biểu tình chống Mỹ-ngụy. Mỹ không yên tâm nên
lại đảo chính lần nữa và đưa Thiệu-Kỳ lên, và liên danh này là 2 nhân
tuyển cuối cùng của Mỹ mà họ hài lòng và an tâm nhất sau khi chọn lựa và
thử nghiệm một loạt các tay sai khác nhau.
Mặt trận, thông qua
người nhà của tướng Minh, đã “ngụy vận” và cảm hóa được ông. Từ chỗ còn
mơ hồ về việc miền Nam bị Mỹ xâm lược và cho rằng Mỹ có giúp xã hội miền
Nam, như các hành động tâm lý chiến mị dân xây nhà, sửa sang đường xá,
phát đồ chơi cho trẻ em, xây trường học (cũng là để nhồi sọ), xây bệnh
viện (cũng để chữa trị cho lính Mỹ, người Mỹ), chích ngừa miễn phí, khám
bệnh miễn phí, bố thí thực phẩm cho dân nghèo, làm “từ thiện”, “nhân
đạo” v.v. thì ông ta cũng nhận thức được bản chất của cuộc chiến, ông ta
là một nhà chính trị trong cuộc, tuy đã bị “lập trình”, nhồi nhét lâu
ngày dưới những mái trường và quân trường của Pháp - Mỹ nhưng sau khi
nghe người của Mặt trận giải thích, phân tích thì ông ta cũng dần nhìn
ra vấn đề, nhìn nhận đúng sự việc.
Ông thấy người Mỹ gây tội ác,
ông thấy chính quyền của mình rõ ràng là một bọn bù nhìn nằm dưới quyền
Mỹ, không có thực quyền, không có quyền quyết định cuối cùng, không có
độc lập thật sự, thậm chí người Mỹ tràn lan khắp miền Nam, không coi
"đồng minh Việt Nam Cộng hòa" ra gì, chà đạp lên "luật pháp VNCH", mặc
tình thảm sát "công dân VNCH", sát hại một số tướng tá "đồng minh VNCH"
mà Mỹ không ưa, giật dây đảo chính lật đổ, đưa lên đưa xuống các "tổng
thống VNCH" như những món đồ chơi, tóm lại là thích làm gì thì làm,
thích giết ai thì giết từ người dân cho tới "tổng thống". Từ đó, ông ta ý
thức ra được đây đúng là một chính quyền bù nhìn của Mỹ và đang phục vụ
cho cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ ở Việt Nam, xã hội miền Nam là một
xã hội thực dân mới (neocolonialism).
Tuy nhiên, ông ta còn
trách nhiệm với gia đình, cho nên không thể một sớm một chiều mà ly khai
ngay lập tức hay theo về với cách mạng. Mặt trận biết vậy và còn khuyến
khích ông ta ở lại, đối với Mặt trận thì một sĩ quan cao cấp, có chức
vụ cao, “thân tại Tào, tâm tại Hán” ở trong hàng ngũ giặc thì có lợi cho
cách mạng hơn. Năm 1975, Mặt trận đã dùng “con bài bí mật” này tuyên bố
đầu hàng vô điều kiện làm Hoa Kỳ không phản ứng kịp và Trung Quốc cũng
không kịp đục nước béo cò.
Trong
những ngày cuối tháng 4 năm 1975, Trung Quốc đã tìm cách đi cửa sau để
tiếp xúc tướng Minh, “tổng thống” vào ngày cuối của chế độ Sài Gòn, để
tiếp tục chống lại cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân của quân dân
miền Nam Việt Nam. Văn kiện “Sự thật về quan hệ Việt Nam – Trung Quốc 30
năm qua” của Bộ ngoại giao Việt Nam do NXB Sự Thật xuất bản vào tháng
10 năm 1979 đầu tiên công bố chuyện mờ ám này. Sau này, tướng Dương Văn
Minh, tướng Nguyễn Hữu Hạnh, sĩ quan ngụy Trần Viết Đại Hưng, và nhiều
cựu tướng tá, sĩ quan quân đội Sài Gòn cũng thừa nhận chuyện này.
19
giờ ngày 28 tháng 4, ngay sau khi tân "tổng thống" Dương Văn Minh vừa
thu âm xong bản tuyên bố của mình với yêu cầu cả hai bên ngưng bắn,
thương lượng để bàn giao chính quyền thì ông Vanussème (Vanuxem), tùy
viên quân sự và an ninh của Đại sứ quán Pháp tại Sài Gòn xuất hiện. Ông
này yêu cầu ngưng phát cuộn băng và đưa ra một đề nghị khiến ông Dương
Văn Minh cũng phải kinh ngạc vì sợ mình nghe nhầm: Chính quyền mới do
ông Dương Văn Minh đứng đầu hãy kêu gọi Trung Hoa can thiệp, ngăn chặn
cộng sản Việt Nam tiến vào Sài Gòn.
Vanussème nói có những nguồn
tin ở Washington, Paris và Bắc Kinh cho biết Trung Quốc không ủng hộ một
thắng lợi hoàn toàn của Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam.
Ông ta còn khẳng định: "Quân đội Trung Quốc sẽ vào giúp các ông đứng
vững". Tuy nhiên, tướng Minh đã từ chối đề nghị của Vanussème và nói:
“Tôi cảm ơn thiện chí của ông, nhưng trong đời tôi, tôi đã từng làm tay
sai cho Pháp, rồi tay sai cho Mỹ, đã quá đủ rồi. Tôi không thể tiếp tục
làm tay sai cho Trung Cộng.” Sau khi Vanussème đi khỏi, Dương Văn Minh
than với vài người thân hữu: "Mình đã bỏ Pháp đi theo Mỹ, bây giờ nó lại
xui mình đi theo Tàu. Thật là chán quá."
Rất nhiều tư liệu, hồi
ký, hồi ức của các chóp bu ngụy, sĩ quan ngụy đã thừa nhận việc này. Ví
dụ ông Dương Văn Minh sau khi định cư ở Pháp, đã kể lại cho các sinh
viên Pháp gốc Việt trong một buổi nói chuyện thân mật ở Paris rằng trong
ngày 30 tháng 4, khi ngụy quyền Sài Gòn trong cơn hấp hối, sắp sụp đổ,
thì người của Trung Quốc đã tìm cách liên lạc với chính phủ Dương Văn
Minh thông qua sự trung gian của người Pháp, đề nghị viện trợ, giúp đỡ
khẩn cấp ngụy Sài Gòn chống lại quân dân miền Nam.
Theo cựu chuẩn
tướng quân đội Sài Gòn Nguyễn Hữu Hạnh (hiện đang là thành viên của Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam), thì sáng ngày 30-4-1975, tướng tình báo Pháp
Francois Vanussème đã đến “Phủ thủ tướng” gặp “tổng thống” Dương Văn
Minh, đề nghị kêu gọi Trung Quốc can thiệp để cứu ngụy quyền Sài Gòn
đang trong cơn nguy cấp. Tướng Minh vốn đã được Ban Binh vận Trung ương
cục miền Nam thông qua em trai Dương Thanh Nhựt (bí danh Mười Ty, người
của cách mạng) và gia đình đã thuyết phục từ trước, nên ông đã khước từ
và nói: “Tôi cảm ơn thiện chí của ông, nhưng trong đời tôi, tôi đã từng
làm tay sai cho Pháp, rồi tay sai cho Mỹ, đã quá đủ rồi. Tôi không thể
tiếp tục làm tay sai cho Trung Cộng.” Cựu "dân biểu" Sài Gòn Lý Quý
Chung, Bộ trưởng Thông tin trong ngụy quyền Dương Văn Minh, trong hồi ức
“Hồi ký không tên” xuất bản ở Việt Nam cũng đề cập tới chuyện này.
Ông
Nguyễn Hữu Thái, một chiến sĩ cách mạng, một trong những gương mặt tiêu
biểu của phong trào sinh viên Sài Gòn chống Mỹ trước 1975 cũng xác nhận
thông tin này. Trong bài hồi ức “Dương Văn Minh và tôi” năm 2008, ông
ta kể lại: Viên tướng Pháp Francois Vanussème đội lốt ký giả hối hả đến
gặp tướng Minh và các cộng sự, và nói với họ: “Hãy rút về Cần Thơ, cố
thủ Vùng 4 Chiến thuật, chỉ vài ngày nữa thôi thì Trung Quốc sẽ có giải
pháp trung lập hóa miền Nam”. Tướng Minh từ khước đề nghị của đặc sứ
Pháp và sau đó than với cộng sự một câu khác: “Hết Tây đến Mỹ, chẳng lẽ
bây giờ còn đi làm tay sai cho Tàu nữa sao!”
Đó là lý do mà trong
những ngày miền Nam sôi sục khí thế, thì ít ai để ý lúc đó Trung Quốc
đã tập kết trọng binh một cách bất thường ở biên giới phía Nam, đại quân
áp sát biên thùy, tạo ra áp lực quân sự làm nóng biên giới. Trong khi
lực lượng võ trang miền Nam Việt Nam đang tiến quân như “mưa lũ tràn về”
giải phóng thành đô, thì lực lượng biên phòng miền Bắc Việt Nam phải
đặt trong tình trạng báo động với một tâm trạng hoang mang không hiểu
ông hàng xóm định làm gì.
Thắm tình quân dân
Như
vậy đã rõ, Trung Quốc không muốn một Việt Nam độc lập - thống nhất –
hòa bình nên đã đi đêm với Mỹ, thực hiện chiến lược “liên Mỹ đả Việt”
(聯美打越), sau khi Mỹ “bỏ con giữa chợ” thì Trung Quốc muốn đóng thay vai
trò của Mỹ. Nhưng họ không ngờ "con bài" Dương Văn Minh của Mặt trận,
vốn đã được Ban Binh vận Trung ương cục miền Nam, và đại tá QĐNDVN Dương
Thanh Nhựt (em ruột của tướng Minh) cảm hóa từ lâu, “thân tại Tào – tâm
tại Hán”. Mặt trận ngay từ đầu đã khuyến khích, động viên tướng Minh ở
lại với Mỹ, vì một sĩ quan cao cấp, có chức tước cao ở trong hàng ngũ
giặc thì có lợi cho kháng chiến hơn, phát huy giá trị hơn.
Những
ngày cuối tháng 4 năm 1975, “con bài Dương Văn Minh” đã phát huy tác
dụng, các tổ chức bí mật của ta ở trong chóp bu ngụy quyền đã cùng với
tướng Minh giành quyền từ tay ông lão chống cộng cực đoan Trần Văn
Hương, không nghe lời Mỹ, bác bỏ mọi uy hiếp, dụ dỗ của Trung Quốc, đầu
hàng vô điều kiện và kêu gọi binh lính bỏ vũ khí đầu hàng làm Mỹ và
Trung Quốc đều bị bất ngờ.
Sự kiện trên cũng cho thấy, Trung Quốc
không chỉ muốn “liên Mỹ đả Việt”, mà còn muốn thay thế vai trò của Mỹ
đối với ngụy quyền. Vì khách quan mà nói, Mỹ đã “bỏ con giữa chợ”, hoàn
toàn bỏ rơi ngụy Sài Gòn từ sáng ngày 30/4/1975. 4:58 sáng thì Martin đã
rời Việt Nam. 7 giờ sáng những quân nhân cuối cùng của Hoa Kỳ cũng rời
khỏi Việt Nam. 7:53 sáng chiếc trực thăng quân sự cuối cùng của Mỹ chở
10 người lính Thủy quân Lục chiến Mỹ cuối cùng tháo chạy khỏi Việt Nam.
Không đầy 4 giờ sau, ngụy quyền sụp đổ, ngụy quân tan rã. Còn 2 tướng
Fredrick C. Weyand và John Murray thì đã bỏ chạy khỏi Việt Nam ngay từ
chiến dịch Mùa xuân 1975, trước chiến dịch Hồ Chí Minh.
Như vậy,
kết quả cuộc chiến đã được định đoạt vào lúc 7:53 sáng ngày 30/4 khi
người lính Mỹ cuối cùng rời khỏi lãnh thổ Việt Nam, chứ không phải khi
Dương Văn Minh tuyên bố đầu hàng vào 11:30 trưa hôm đó, tướng Minh là
quân bài của Mặt trận từ lâu, và tác dụng của việc tuyên bố đầu hàng và
kêu gọi buông súng chỉ là để cho không còn đổ máu vô ích, đánh gục những
sự ngoan cố cuối cùng của một bộ phận quá khích.
Trung Quốc lá
mặt, lá trái không những với Việt Nam, mà còn với cả đồng minh mới Hoa
Kỳ, đồng minh mà họ đi đêm từ năm 1972. Âm mưu qua mặt Mỹ, nhặt lại công
cụ mà Mỹ đã sử dụng và vừa mới vứt bỏ cách đó vài giờ. Mỹ - Trung, một
bên vỏ quýt dày thì một bên móng tay nhọn, bên tám lạng, người nửa cân,
hình thành một mối quan hệ bạn thù khó phân.
Henry Kissinger khi
nói về Chiến tranh biên giới Việt – Trung, cũng đã thừa nhận: “Trung
Quốc giúp đỡ Hà Nội để làm cùn bớt lưỡi dao của Mỹ thọc vào châu Á.” và
"Hà Nội chỉ chiến đấu với một lẽ duy nhất, đó là lòng yêu nước của họ.
Và một nước Việt Nam thống nhất dưới sự lãnh đạo của những người cộng
sản Việt Nam, chiến thắng vào năm 1975, chính là mối đe dọa chiến lược
to lớn đối với Trung Quốc còn hơn đối với Mỹ."
Không những các
thỏa thuận giữa Trung Quốc với Mỹ, những mưu đồ chiến lược của họ đã bị
thất bại, mà một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa độc lập, thống nhất,
phát triển, hội nhập, và có uy tín và vị thế chính trị ngày càng cao
trên trường quốc tế, sẽ mãi là vật cản, chướng ngại không thể nào san
bằng cho mưu đồ bành trướng bá quyền Đại Hán của Trung Quốc ở Đông Dương
và Đông Nam Á. Thắng lợi lịch sử của dân tộc Việt Nam ngày 30/4/1975
không chỉ là thất bại lớn của Hoa Kỳ, mà cũng là thất bại lớn của Trung
Quốc.
Những giọt nước mắt hạnh phúc
Lịch sử chia cắt Việt Nam
Kể
từ thời Trịnh - Nguyễn phân tranh rồi cuộc chiến giữa Tây Sơn - Nguyễn,
Việt Nam chưa bao giờ có được sự thống nhất thật sự, triệt để và lâu
dài. Trong thời Nguyễn sau này cũng xảy ra cuộc nổi dậy quy mô của Lê
Văn Khôi đánh chiếm 6 tỉnh ròng rã 2 năm trời và hàng loạt cuộc khởi
nghĩa nông dân khác chống lại ách thống trị phong kiến của nhà Nguyễn.
Nội chiến nối tiếp nội chiến.
Khi thực dân Pháp xâm lược và thôn
tính nước ta, họ chia Đại Nam ra 3 kỳ, 3 xứ riêng lẻ (Nam Kỳ -
Cochinchine, Trung Kỳ - Annam, Bắc Kỳ - Tonkin) với 3 chế độ cai trị
khác biệt, phục vụ cho chính sách “chia để trị”, “dùng người Việt trị
người Việt”. Đây cũng là chia cắt, nhưng do giặc xâm lăng chia cắt,
không phải là nội chiến.
Cách mạng tháng Tám thành công, nước
Việt Nam phục hồi nền độc lập sau gần 100 năm Pháp thuộc và mấy năm bị
giặc Nhật xâm lược. Chính phủ Việt Nam DCCH tuyên bố độc lập và thống
nhất, xóa bỏ chế độ Bắc – Trung – Nam của thực dân, phát xít. Tuy nhiên,
sau đó quân Tàu Tưởng kéo vào miền Bắc, liên quân Anh – Pháp kéo vào
Nam, sau đó thực dân Pháp trở lại xâm lược nước ta, mưu đồ tái chiếm
thuộc địa, đại nghiệp thống nhất đất nước bị kẻ thù ngăn trở. Quân dân
Việt Nam trên toàn quốc phải bước vào cuộc chiến tranh khốc liệt chống
quân Pháp xâm lược.
Sau trận Điện Biên Phủ, giải phóng xong miền
Bắc Việt Nam, giành được độc lập tự do thực tế trên nửa nước, lúc đó
quân dân Việt Nam vẫn còn sức để chiến đấu giải phóng nốt miền Nam,
nhưng Đảng và Bác Hồ muốn tranh thủ hòa bình, dưỡng sức nuôi quân đợi
thời cơ, và không muốn đồng bào, chiến sĩ phải tổn thất thêm, xương máu
đổ xuống thêm, đất nước bị tàn phá thêm, và cũng không muốn dồn Pháp vào
đường cùng, vào chân tường, chọc họ liều lĩnh gây tội ác, do đó đã mở
ra một con đường cho Pháp xuống nước và giữ thể diện, chấp nhận cho Pháp
nghị hòa và đàm phán trong hội nghị Genève.
Sau khi chắc chắn
rằng Hiệp định Genève về Đông Dương này đã có các điều khoản về sự đảm
bảo chủ quyền, độc lập, thống nhất, và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước,
vĩ tuyến 17 chỉ có ý nghĩa quân sự (military zone), và nuôi hy vọng về
một cuộc tổng tuyển cử năm 1956 trên toàn quốc để hoàn toàn thống nhất
đất nước, cũng như dự tính về những cuộc đấu tranh chính trị trong 2 năm
đó để gây sức ép, tạo áp lực cho Pháp, Mỹ, ngụy ở miền Nam phải nghiêm
chỉnh thực hành hiệp định Genève, tổng tuyển cử tự do thống nhất đất
nước, cộng với những ràng buộc mang tính nguyên tắc trong hiệp định rằng
quân đội thực dân Pháp phải cuốn gói rời khỏi Đông Dương trong vòng 2
năm, nên Việt Nam đã chấp nhận ký Hiệp định Genève 1954 với Pháp. Sự
nghiệp thống nhất tạm hoãn 2 năm.
Sau đó Mỹ, vốn trong chiến
tranh Pháp - Việt chính là kẻ đứng sau thực dân Pháp, đã từ hậu trường
nhảy ra phía trước sân khấu, lần lượt thu mua, chiêu hồi các tay sai cũ
của Pháp, sử dụng các công cụ ngụy quyền, ngụy quân mà Pháp đã sử dụng
và để lại, từng bước hất cẳng Pháp ra khỏi võ đài chính trị ở miền Nam
Việt Nam. Mỹ-ngụy đã xé bỏ Hiệp định Genève về Đông Dương để chia cắt
đất nước, đóng cửa vĩ tuyến 17, canh giữ sông Bến Hải, ngăn cầu Hiền
Lương, chia cắt không cho miền Nam và miền Bắc gặp nhau, gây khó khăn
một cách có hệ thống cho việc giao lưu, qua lại, liên lạc Bắc-Nam.
Mỹ-Diệm chia cắt không cho Nam-Bắc hiệp thương, giao thương, quan hệ. Họ
chia cắt, ngăn cản không cho lãnh đạo miền Bắc vào miền Nam, không cho
Đảng bộ miền Nam liên hệ ra Bắc.
Trong lịch sử phong kiến, Loạn
12 sứ quân đã chia ra 12 vùng ảnh hưởng khác nhau, chiến tranh Nam - Bắc
Triều giữa nhà Mạc và Trịnh-Lê, phân tranh Nam Hà - Bắc Hà, Đàng Trong –
Đàng Ngoài giữa 2 thế lực Trịnh - Nguyễn là chia cắt kiểu nội chiến,
nghĩa là chia cắt vì mỗi vùng hình thành một lực lượng địa phương, không
phục nhau, ly khai với nhau. Hoặc có nhiều phe đảng khác nhau chống
nhau rồi kéo đến nơi nào đó dựng nghiệp, xưng hùng một cõi.
Chia
cắt thời Tây Sơn ở phía Nam, nhà Lê của Lê Chiêu Thống ở phía Bắc là
loại chia cắt đã có từ trước, bắt nguồn từ Trịnh - Nguyễn phân tranh từ
các thế hệ trước. Nhưng trong thời điểm này thì Nam Hà có thực lực và
độc lập thật sự, còn Bắc Hà sau một thời gian cát cứ quân phiệt, hỗn
quân hỗn quan đánh loạn lẫn nhau, tranh giành quyền lực, rồi sau đó giặc
Thanh tiến vào “bảo vệ triều đình”, “giúp An Nam quốc vương chống giặc
Nguyễn Huệ - Tây Sơn”, “giúp đỡ Lê Duy Kỳ khôi phục ngai vàng, khôi phục
nhà Lê, khôi phục cơ nghiệp tổ tông”, “phù Lê diệt Huệ” v.v. Sau khi Lê
Chiêu Thống sang cầu viện thì Bắc Hà đã thuộc về quyền kiểm soát của
vua Càn Long và nhà Thanh, triều đình Lê Chiêu Thống chỉ là cái “đuôi
trâu” không có quyền hành gì thật sự, người Hoa, người Thanh muốn làm gì
thì làm, hoành hành bá đạo, nhũng nhiễu lương dân bá tánh. Chia cắt
đấy, nhưng chỉ có Nam Hà là thuộc quyền lãnh đạo của người Việt, còn Bắc
Hà là bị người Mãn Thanh xâm lược và chiếm đóng.
Chia cắt thời
Pháp thuộc là chia cắt kiểu bị đô hộ. Khi tên đô hộ làm chủ và có quyền
hành ở cả 3 nơi bị chia cắt. Họ chia nước ta ra làm 3 miền, 3 xứ, với 3
hệ thống cai trị khác nhau, hầu dễ bề “chia để trị”, chia rẽ dân tộc
Việt Nam và thực hiện chính sách “dùng người Việt trị người Việt”.
Chia
cắt sau Hiệp định Genève về Đông Dương là chia cắt kiểu một bên là một
Việt Nam giải phóng nửa nước, có độc lập nhưng chưa thống nhất trên thực
tế, một bên là dưới quyền thực dân Pháp chưa chịu rút hết, vẫn đang cố
gắng níu kéo, bám víu cho kỳ được.
Sau đó Mỹ xông vào và từng
bước lấn dần quyền lực của Pháp và sau đó hất cẳng Pháp hoàn toàn, thay
vào vị trí và vai trò của Pháp. Mỹ đã xâm lược, chiếm đóng, và kiểm soát
miền Nam Việt Nam, chia cắt lâu dài đất Việt, ngăn cấm miền Bắc và miền
Nam gặp nhau, không cho đến với nhau. Các lãnh đạo, tướng lĩnh, chiến
binh miền Nam muốn ra Bắc thì phải đi lén lút khổ sở. Miền Bắc muốn chi
viện cho miền Nam thì phải hành trình thầm lặng, vất vả, gian nan và
nguy hiểm qua Đường Trường Sơn, Đường Hồ Chí Minh trên biển, và 3 “Đường
mòn Hồ Chí Minh” bí mật khác. Quân đội Mỹ chinh phạt, bình định, đàn
áp, càn quét, tấn công khắp miền Nam và phá hoại miền Bắc.
Đại
nghiệp thống nhất đất nước, thống nhất dân tộc dở dang sau Cách mạng
tháng Tám, sau Tuyên ngôn Độc lập, sau hội nghị Genève, sau kháng chiến
chống Pháp cuối cùng cũng đã hoàn thành vào ngày 30 tháng 4 năm 1975.
Thống nhất đây là thống nhất tất cả: Thống nhất Nam-Bắc, thống nhất
Bắc-Trung-Nam, thống nhất miền Nam, thống nhất vùng tạm chiếm và vùng
giải phóng, xóa đi các “mảnh da báo”, lấp lại những hố ngăn cách, thống
nhất toàn bộ. Về mặt pháp lý quốc tế, thì năm 1976 họp Quốc hội là thống
nhất Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và Cộng hòa miền Nam Việt Nam, thành
nước CHXHCN Việt Nam. Nói chung là thống nhất toàn bộ, thống nhất tất
cả, thống nhất triệt để. Ngày nay chúng ta đi từ Hà Nội đến Sài Gòn chỉ
mất 2 giờ bay, ngày trước cha anh đã đi mất 21 năm.
Ngày 30/4,
dân tộc Việt Nam cuối cùng cũng hoàn thành được sự nghiệp thống nhất,
điều mà đất nước Việt Nam, dân tộc Việt Nam chưa từng có kể từ khi giặc
Tây vào xâm chiếm, đô hộ, nô dịch và chia nước ta ra làm 3 xứ thuộc địa,
điều mà nhân dân VN tranh đấu và hy sinh gian khổ suốt một thời kỳ
giành độc lập dân tộc, giải phóng dân tộc lâu dài từ thời Pháp thuộc đến
ngày toàn thắng, hoàn toàn thống nhất quốc gia và giải phóng hoàn toàn
miền Nam, đưa đất nước thoát khỏi nỗi đau chia cắt và tất cả giặc ngoại
xâm.
Thiếu Long
Nguồn: Thiếu Long's blog

Nỗi ám mang tên ba que
Gần
đây, một sự kiện gây nhiều chú ý trong cộng đồng người Việt ở Mỹ là
việc nghị viên khu vực F TP Houston Hoàng Duy Hùng (HDH) về VN làm việc.
Sự việc sẽ không mấy ồn ào nếu ông này không phải là thành phần từng có
số má cờ vàng thuộc loại cực đoan hăng tiết vịt, nhưng nay lại quay
ngoẳt lập trường để “làm lợi cho CS”. Đây là điều tối kỵ đối với cộng
đồng cờ vàng hải ngoại nhất là trong thời điểm cờ vàng đang ốm o gầy
mòn, tiêu hao lực lượng sống nay chết mai .
Thành tích chống
cộng của HDH khá ấn tượng trong cộng đồng chống cộng cờ vàng vì những
hành động mang tính giang hồ hảo hán. Ông ta khoe thành tích với vẻ
hãnh diện rằng đã nhiều lần xâm nhập VN âm mưu đặt bom tượng đài lãnh tụ
HCM và từng bị chính quyền VN cầm tù 16 tháng.
Bản chất của cờ
vàng là chết nhát, chỉ biết xúi trẻ ăn cứt gà để mơ mộng cho nên những
hành động như vậy luôn được khuyến khích, đề cao và ca ngợi như là anh
hùng. Có một thời ở hải ngoại nổi lên những nhân vật cờ vàng tìm mọi
cách hành động gây tiếng vang tương tự để nổi tiếng và cũng để kiếm
cơm. Tuy nhiên hầu hết đều được bóc lịch trong nhà đá CS. Thời VNCH
những hành động chống lại nhà cầm quyền như thế thì ra tù không què cũng
ngớ ngẩn, không bao giờ còn nguyên vẹn hình hài. Thế nhưng những “anh
hùng cờ vàng “ như Lý Tống, tay chân của Nuyễn Hữu Chánh, tay chân của
băng đảng Việt Tân, băng đảng Vì Dân … và rất nhiều người khác vẫn bình
an béo tốt khi mãn hạn tù, cho thấy tính răn đe của luật pháp VN vẫn
còn nhẹ hều cho nên có nhiều tội phạm loại này có cơ hội tái phạm trong
đó có HDH.
HDH cho rằng máu hảo hớn cờ vàng của mình như thế thì
quá đủ để chứng minh mình đã dấn thân rất nhiều cho cờ vàng và chứng
minh mình là dân cờ vàng thứ thiệt . Nay sở dĩ HDH thay đổi lập
trường đấu tranh vì BU BẢO chứ không phải phản bội cờ vàng. Đề cập đến
BU là một vũ khí hiệu quả đặc biệt có tác dụng làm câm họng những kẻ
chống đối. Nó được nhiều người sử dụng từ khi còn chế độ VNCH. Một khi
BU BẢO thì cấm có thằng nào dám trái lời.
HDH lập lại rất nhiều
lần rằng những lần manh động có tính khủng bố ở VN ông đều được BU BẢO
là cần phải chấm dứt. Nay ông phải nghe lời BU để đấu tranh kiểu khác
nhưng ông không hề từ bỏ lập trường cờ vàng. Thực ra Bu không bảo thì
HDH cũng phải chấm dứt hành động mang tính khủng bố tương tự vì HDH hành
động mang tính bột phát, anh hùng rơm không có được một tổ chức ra hồn
để hỗ trợ và việc thoát khỏi bị bắt vào nhà đá chỉ là cánh cửa vô cùng
hẹp, chỉ biết trông chờ vào chúa mà thôi. Nguyễn Hữu Chánh có hẳn một tổ
chức “chính phủ VN tự do” hoạt động trong quốc nội mà vẫn bị CAVN lượm
vào nhà đá gần 200 em (báo cand) gần như sạch sành sanh thì dù BU BẢO
HDH cũng đố dám ho he. Tất cả những âm mưu đánh bom khủng bố của cờ vàng
38 năm qua đều bị CAVN dập tan từ trứng nước. Cái thiếu lớn nhất của cờ
vàng dẫn đến thất bại là thiếu người dám đánh bom liều chết.
Thử
tưởng tượng điều gì sẽ xảy ra khi cờ vàng có một tinh thần thánh chiến
như Al Quaeda, có những chiến binh cờ vàng sẵn sàng mang bom liều
chết để gây bất ổn cho kẻ thù? Vĩnh viễn không bao giờ có được bởi vì
cờ vàng rất ích kỷ không bao giời muốn chết cho kẻ khác sống và lá gan
của cộng đồng cờ vàng không đủ lớn để làm những việc như thế, duy chỉ
có cái mồm vẫn đủ lớn để nói láo suốt ba mươi tám năm qua.
Là một
thành viên cờ vàng chống cộng có số má được ghi vào sổ bìa đen của Công
An VN, cánh của trở về của HDH rất hẹp. Nhiệm kỳ làm nghị viên TP
Houston là cơ hội hiếm hoi để HDH toan tính cho cuộc hành hương về nguồn
của mình danh chính ngôn thuận . Đây chính là thời điểm để HDH toan
tính thế nào vừa thênh thang đường về vừa không làm nổi giận băng nhóm
cờ vàng. Đây là bài toán nhức óc. Điều dễ dàng nhất để vừa lòng cờ vàng
là HDH phải có phát ngôn tố cộng cứng rắn, phải nói láo, phải hứa hẹn
kiên định lập trường cờ vàng và xác định lằn ranh quốc cộng. Thế nhưng
về VN làm nhiệm vụ của một viên chức Mỹ , nhập gia người ta mà cứ moi
móc hoạnh họe gia chủ theo luận điệu cờ vàng thì quá khó cho một người
có chút liêm sỉ. HDH chọn thái độ vẫn khẳng định lập trường cờ vàng
nhưng tuyên bố chuyến hướng sang …. đấu tranh ôn hòa trực diện, Thế
nhưng nào có được yên thân, lập tức HDH bị biểu tình phản đối và đặt bom
khủng bố.
Cờ vàng chẳng bao giờ tin ai, ngay cả những “anh hùng
” của mình. Cờ vàng quen nói láo và nghĩ rằng ai cũng có thể nói láo
như mình. Thế nên một anh cờ vàng khi tuyên bố điều gì lập tức có hàng
chục anh khác cật vấn vì cho rằng anh kia đang nói láo. HDH cũng nằm
trong trường hợp đó. Khi công bố rằng anh ta chỉ làm cầu nối để cờ vàng
“đấu tranh trực diện” với thứ truởng ngoại giao VN Nguyễn Thanh Sơn thì
lập túc có hàng chục thành viên cờ vàng khác chất vấn đủ điều, nào là
bảo không bên nào có phóng viên tại sao có hình đang trên báo trong
nước, nào là tại sao buổi họp tuyên bố là công khai mà lại ru rú họp
kín với nhau.v.v… Tóm lại họ cho rằng HDH đang nói láo. Nói láo là loại
vũ khí thuộc loại bẩn thỉu nhất nằm trong danh mục đặc sản cờ vàng
không anh nào là không tận dụng, trong đó có việc tố nhau là Việt Gian,
moi móc tố khổ đời tư của nhau mà chính HDH cũng từng là nạn nhân. Ngay
sau khi thay đổi lập trường chống cộng HDH lập bị tố khổ là Việt Gian,
là đứa con bất hiếu từng khiến thân phụ của mình uất ức phải lao đầu
vào xe tự tử. Làm vừa lòng được cờ vàng bằng lý lẽ là chuyện xưa nay
hiếm vì đối với họ không có lý lẽ nào biện hộ được cho việc xóa bỏ “lằn
ranh quốc cộng”.
Biết rằng không thể làm vừa lòng cờ vàng, biết
rằng kiểu cực đoan cờ vàng 38 năm qua của những băng nhóm chất chứa đầy
hận thù và vị kỷ chỉ là làm trò hề cho thiên hạ nhưng HDH không thể đủ
can đảm và bản lĩnh để giũ bỏ nó đi, ngược lại cố bó nó vào người để tìm
sự an toàn, đó là sai lầm mà HDH sẽ phải đeo đẳng mãi bên mình nỗi ám
mang tên cờ vàng.
HDH là thế hệ cờ vàng thứ hai được đào tạo bởi
nền giáo dục BU cho nên cái hận thù trong giòng máu không khốc liệt như
thế hệ trước và thật may cũng nhờ thế nên HDH không bị nhiễm cái NGU của
cờ vàng cực đoan, nhất là sợi thần kinh xấu hổ không bị liệt giúp cho
HDH nhận ra sự thật lịch sử để chấp nhận nó và ít ra không bị nhiễm
thói điêu ngoa nói láo rất ghê tởm của cha chú mình. Thế nhưng kiểu
tuyên truyền nhồi sọ của cha chú cũng làm cho HDH thấm đậm chất cờ vàng.
HDH lập lại như con vẹt rằng “CS vô thần” và ngạc nhiên thấy ông Nguyễn
Thanh Sơn thờ phật. Lập lại như con vẹt rằng Saigon là “hòn ngọc Viễn
Đông” phát triển hơn hẳn Thái Lan và Nam Dương để so sánh với Saigon
ngày nay chứng tỏ rằng cái não trạng cờ vàng đã được ngấm sâu tư tưởng
đã được nhồi sọ như thế nào. Dù rằng không cần gặp ông Nguyễn Thanh
Sơn, hay dù rằng chưa về đến Sai gon đi nữa với phương tiện truyền
thông hiện nay HDH cũng có thể biết được sự thật nó như thế nào.
HDH
vẫn như con vẹt tự nhận mình là người “quốc gia tị nan CS”. Người quốc
gia cái nỗi gì khi qua Mỹ chưa đầy 13 tuổi. Thằng cu 13 tuổi thì gặp
NẠN gì của CS mà phải TỴ? Xem ra vẫn còn tồn tại thế hệ cờ vàng con cứ
cứ múa môi như cái máy được lập trình software mang tên cờ vàng.
Sự
thực phát triển ở VN làm cho những nhân vật cờ vàng có số má như HDH
cũng phải công nhận và ca ngợi không thể nói khác đi được. Trong chuyến
về làm việc tại VN, HDH nhận xét sự phát triển ở VN bằng những lời có
cánh. Chưa hẳn HDH muốn nịnh chính quyền VN bởi vì bất cứ ai từng đến
VN đều có nhận xét như thế. Tuy nhiên nhận xét “có lợi cho CS” xuất phát
từ một hậu duệ cờ vàng cực đoan như HDH thì chắc chắn nó tạo ra một cú
sốc rất mạnh cho cộng đồng cờ vàng cho dù đó là sự thực.
Trên các
diễn đàn HDH nhận được nhiều lời khen, động viên khích lệ về việc dũng
cảm tự nhận con đường cực đoan mình theo đuổi vô ích và từ bỏ nó, nhưng
cũng có không ít những giọng điệu chửi bới cay cú đặc sệt ngôn ngữ cờ
vàng. Những chống đối chỉ xoay quanh những luận điểm rất cũ là HDH hạ
mình thỏa hiệp với CS, bị CS mua chuộc, hòa hợp hòa giải với CS, toàn
những điều được xem là điều tối kỵ trong lập trường cờ vàng. Trước khi
về VN, HDH đã rào đón rất kỹ để thăm dò nghe ngóng phản ứng, về lại
Mỹ, dù bị tẩy chay HDH vẫn tổ chức họp báo để “báo cáo” sau chuyến đi
của mình với điểm nhấn là lá cờ vàng to đùng sau lưng cho thấy HDH vẫn
còn sợ hãi thế lực đen cờ vàng lắm, HDH thiếu hẳn bản lĩnh và sự quyết
đoán cần có của một trí thức muốn dấn thân làm chính trị.
Hở một
tí là lấy lá cờ vàng phất lên để chứng minh sự trung thành với “quốc
gia” Trò hề độc nhất vô nhị trên thế giới này chỉ thấy xuất hiện trong
cộng đồng cờ vàng với nhau. Thế nhưng nó cũng không phải là lá bùa vạn
năng có thể hóa giải những lời chửi bới, tố khổ Việt gian. Và không phải
ai cũng tin vào cái “lập trường quốc gia” qua hành động ấu trĩ đó. Thế
nhưng một trí thức như HDH cũng vẫn phải áp dụng cái hình thức “thay
lời muốn nói” này để phân bua với cờ vàng như một nghi thức bất thành
văn đủ thấy cái văn hóa cờ vàng nó hề đến độ nào.
Cũng vì quá
quen với “nghi thức’ như thế cho nên cờ vàng rất dị ứng với anh nào đứng
đưới lá cờ đỏ vì cho rằng anh ta đã bị CS nhuộm đỏ rồi. Quả là nếu so
với con bò không biết ai ngu hơn.
Mấy chục năm qua trường hợp như
HDH quay về VN hợp tác với chế độ không ít xảy ra và đã nhận rất nhiều
hình thức chống đối, tẩy chay của cờ vàng nhưng cờ vàng vẫn bất lực
không thể ngăn chận được.
Về VN, trở về quê hương của chính mình
là một việc tưởng như vô cùng bình thường đối với bất cứ người Việt nào,
nhất là trong giai đoạn nhà nước VN đang rộng cửa mời gọi kiều bào về
đóng góp cho đất nước. Thế nhưng việc về lại quê hương lại là bài toán
khó giải đối với những người từng đứng trong hàng ngũ cờ vàng như HDH.
Thế nên trước khi về VN HDH đã tung hứng làm một loạt những hành động
thăm dò phản ứng cờ vàng. Dù bị hăm dọa và đặt bom, nhưng nhận thấy
liều lượng chống đối quen thuộc quá yếu ớt không còn mạnh mẽ như ngày
nào thế là HDH quyết định về VN. Dù khó khăn nhưng HDH đã đạt mục tiêu
là …. về thăm quê hương. Ôi thật là không nghịch lý nào bằng..
Không
riêng gì HDH, cái con ngáo ộp thế lực đen cờ vàng vẫn còn ám những kẻ
từng tung hô cờ vàng nhưng nay giở trò “phản bội”. Tuy nhiên nó chẳng
ảnh hưởng tí gì đến bất cứ người dân Việt bình thường nào ở hải ngoại,
bằng chứng là hàng triệu lượt người vẫn về thăm quê nhà và đóng góp số
tiền khổng lồ cho đất nước. Có thể nói hầu hết các nghệ sĩ hải ngoại có
tiếng tăm đã chọn con đường trở về VN chấp nhận đối đầu với những chống
đối du côn của băng đảng cờ vàng. Trước đây trên các sân khấu ca nhạc
hải ngoại, muốn sống được họ bị buôc phải ca ngợi và phục tùng lá cờ
vàng. Thời thế đã đổi thay, quê hương luôn có sức hấp dẫn kỳ diệu và
băng nhóm cờ vàng đang trên đà suy thoái nghiêm trọng, khuynh hướng quay
lưng lại với cờ vàng đang lan tỏa vô cùng mạnh mẽ, đó cũng là một
trong những nguyên nhân tác động để HDH đủ sáng suốt từ bỏ lập trường
cực đoan ngu xuẩn.
Tuy nhiên, HDH luôn cho rằng mình chuyển hướng
“đấu tranh” ôn hòa và vẫn đứng về phía hàng ngũ quốc gia, vẫn giữ căn
cước tị nạn và vẫn trung thành với cờ vàng.
Xưa nay cờ vàng vẫn
kiên định lập trường không thỏa hiệp với CS, không hòa hợp hòa giải với
CS và luôn giữ vững lằn ranh “quốc cộng”, lập trường của HDH không thể
chấp nhận được. Cho nên dù HDH đi công vụ cho BU nhưng công vụ này “có
lợi cho CS” việc HDH bị “CS mua chuộc” là điều có thể thấy trước. Lo sợ
ấy của cờ vàng không thừa bởi vì hàng trăm ngàn người về VN đều bị mê
hoặc bởi cội nguồn của mình, ở đó có người thân, ở đó có đồng bào nói
cùng ngôn ngữ, ở đó có cuộc sống thanh bình có tình tự dân tộc, cuộc
sống vươn lên khắp nơi thay đổi đầy kinh ngạc khác xa một trời một vực
với những điều nói láo của cờ vàng.
Người CSVN có một loại vũ
khí tấn công cờ vàng rất lợi hại là dùng tình tự dân tộc lòng yêu quê
hương đồng bào để hòa giải hòa hợp dân tộc, huy động tài vật lực cho
đất nước và có tác dụng cô lập cờ vàng. Chính vì thế cho nên cờ vàng mới
cuống cả lên khi nghị quyết 36 ra đời. Đừng ngộ nhận rằng chính quyền
VN chủ trương hòa giải dân tộc là hòa giải với cờ vàng. CSVN phân định
rất rõ những người chưa hiểu về VN và những kẻ chống đối VN. Không hề có
chủ trương hòa giải với kẻ có âm mưu lật đổ chính quyền như cờ vàng,
nhất là cờ vàng chưa bao giờ là một thế lực khả dĩ nhà cầm quyền VN cần
phải hòa giải. Sự hoang tưởng mình là một thế lực ở hải ngoại làm cho cờ
vàng càng ngày càng u mê và càng đau đớn hơn khi càng ngày càng có
thêm những người đồng hội đồng thuyền giũ áo quay lưng với mình.
HDH
tự cho mình đang đấu tranh cho dân chủ ở VN. Nhưng đấu tranh cho dân
chủ ở VN không nhất thiết phải “đứng trong hàng ngũ quốc gia” không
nhất thiết phải cố nép sau lá cờ vàng. Việc màu mè dựng lá cờ vàng
trong cuộc họp báo chứng tỏ HDH muốn bắt cá hai tay, những phát ngôn
cho thấy HDH vừa muốn được lòng chính quyền trong nước nhưng mặt khác
vẫn không muốn gây phật lòng cờ vàng. Tính toán của HDH là một sai lầm
lớn. HDH tính toán rằng tự trói mình vào lá cờ vàng để yên thân, nhưng
không những bị băng đảng này xem là đạo đức giả, mà cũng không thoát
được sự tẩy chay. Cái mất lớn nhất là bị đồng hương hải ngoại và người
dân trong nước nhìn mình bằng con mắt ngờ vực về cái tâm trong sáng.
Có
cần phải lấy lòng cờ vàng không khi nó chống cộng chỉ vì lợi ích băng
đảng vì hận thù triền miên? Không thể có lòng yêu nước trong một băng
nhóm luôn kêu gọi tẩy chay lợi ích dân tộc và hí hửng cầu mong nước nhà
bị xâm lăng dù viện dẫn bất cứ lý do gì. Có thể có lòng yêu nước trong
băng nhóm bất cần lợi ích dân tộc miễn là làm khó được cho kẻ thù là nhà
nhà cầm quyền hiện tại? Có thể có lòng yêu nước không trong cái băng
nhóm xem BU là tối thượng sẵn sàng đứng sau lưng ngoại bang thậm chí là
kẻ thù của dân tộc để phục hận cho dù phải đổ máu đồng bào?
HDH
cho rằng việc chống cộng của cờ vàng hiện nay là vì lòng yêu nước là
ngụy biện. Cờ vàng chỉ yêu cái nước VNCH yêu cuộc sống có BU bú mớm và
tiếc thay cho nó yểu số, hận thay cho nó bị CS khai tử. Không thể tưởng
tượng được có ai yêu nước mà cầu cho Tàu nó đánh VN để tiêu diệt CS cho
cờ vàng rửa hận.
Còn nhớ năm 1979 khi tàu xua quân tấn công biên
giới phia Bắc, băng đảng cờ vàng vui như mở hội, lập đàn cầu cho nó
đánh Hà nội. Yêu nước như thế sao ?
Có thể nói dù có muốn nhưng
những người tùng hoạt động trong các băng nhóm cờ vàng phải dũng cảm lắm
mới quyết định giũ bỏ nó mà không bị nó ám. HDH từng thanh minh rằng
phải mang vợ về cùng vì sợ cờ vàng nó đồn là về VN để gái gú. Thật khổ
cho cái nỗi ám mang tên cờ vàng. Thông cảm cho HDH nhưng cũng tiếc cho
một con người có kiến thức nhưng yếm thế, thiếu quyết đoán và bản
lãnh. HDH rất muốn gỡ ra khỏi cơ thể cái mớ bùng nhùng cờ vàng đã lỡ
khoác trên người bao năm qua nhưng cứ loay hoay như gà mắc tóc và không
biết phải bắt đầu như thế nào. Mới đây HDH biện hộ cho việc đặt lá cờ
vàng trong cuộc họp báo rồi huênh hoang về ý nghĩa và giá trị của nó, ba
hoa rằng chính thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã từng đứng dưới lá cờ vàng
tại văn phòng nghị sĩ John McCain. Không biết HDH muốn truyền tải điều
gì về sự tưởng tượng đó, thủ tướng Dũng chấp nhận lá cờ vàng chăng?
Thật là quá ấu trĩ. (1) HDH không thoát khỏi căn bệnh cố hữu của cờ
vàng là lấy những điều mà các thế hệ cờ vàng trước nói láo để dẫn chứng.
(2) Xem ra một tiến sĩ luật được đào tạo tại Mỹ, được trang bị những
xảo thuật chữ nghĩa để biện luận mà vẫn phải dùng ngón nghề nói láo ra
để biện minh cho một sự kiện bố láo khác chứng tỏ rằng thoát ra khỏi cái
u mê cờ vàng không phải dễ.
HDH đã về VN đã chứng kiến sự phát
triển mạnh mẽ của đất nước mà có muốn nói láo cũng không thể được. HDH
chứng kiến sự phát triển kỳ diệu của Đã Nẵng đến nỗi phải lập lại nhiều
lần rằng đây sẽ là Singapor thứ hai ở Đông Nam Á. HDH được chứng kiến cơ
sở chế biến rác của ông David Dương một trong vô số Việt kiều có đóng
góp thiết thực cho đất nước và đồng bào. Những thực tế ấy chắc hẳn sẽ có
tác động vào niềm tin của HDH rằng một nước VN hùng mạnh do đảng CSVN
lãnh đạo sẽ là hiện thực rất gần . Một trí thức trẻ như HDH chắc chắn sẽ
nhận ra điều đó . Đúng là quá muộn màng nhưng muộn còn hơn không.
Dù
sao cũng đáng ghi nhận thiện chí của HDH với đất nước. Nếu bỏ qua những
chi tiết hành động để lấy lòng cờ vàng vẫn có thể thấy ở HDH có cái
tâm với đất nước và có cảm xúc với sự phát triển của quê hương, không
còn thấy con người cực đoan trong HDH. Dù chuyến về thăm quê hương được
sắp xếp theo một kịch bản được chuẩn bị trước thì kịch bản và diễn xuất
khá hoàn hảo dù rằng áp lực sợ mất lòng cờ vàng làm cho HDH chưa bộc lộ
hết nỗi lòng.
Đúng là là một nghị viên gốc việt sống trong hang ổ
cờ vàng HDH đang gặp khó. Dân ta có câu “trong cái khó ló cái khôn”
cái khôn ở đây không phải là toan tính sẽ lấy lòng cờ vàng kiểu nào mà ở
chỗ quyết tâm giũ bỏ nó như thế nào. Giũ bỏ nó là giũ bỏ tư tưởng cực
đoan vị kỷ, quên đi cái dĩ vãng hoàng kim khi còn có BU bảo trợ, giũ bỏ
đi cái nỗi niềm canh cánh hận thù. Giũ bỏ nó là xa rời cái băng đảng bát
nháo du côn đang khư khư bám vào cái “lằn ranh quốc cộng” để nuôi khát
vọng trả thù.
Hãy can đảm lên để chấm dứt tham gia vào những trò
lố bịch của cái sân khấu cờ vàng. Còn lá cờ vàng hãy cất nó vào tủ như
một vật kỷ niệm, vì cho dù nó có được phất lên ở bất cứ nơi đâu, dù
có vinh danh nó như thế nào , dù có gán cho nó bao danh xưng mỹ miều, dù
bỏ bao công sức để vận động cho nó được công nhận nơi này nơi khác trên
xứ BU thì nó vẫn chỉ là biểu tượng về sự hoài niệm của một thiểu số,
không hề có tí giá trị nào để phải “chào” nó cả. Cả thế giới này đã
nhìn nhận rằng nó đã chấm dứt vai trò của nó và đi vào lịch sử, không có
quốc gia nào công nhận nó là “quốc kỳ” như dân cờ vàng xưng tụng . Đó
là sự thật, nó đã chết đã 38 năm rồi.
Blog Xích Lô Việt

Giấc mộng ba que
Lòng yêu nước của dân Việt đã giúp dân tộc ta tồn tại đến nay. Ai cũng thấy đó là sức mạnh vô cùng to lớn với điều kiện nó phải được tập hợp lại và thống nhất hành động. Đảng CSVN đã làm được việc đó. Các thế lực cờ vàng ý thức được sức mạnh này nhưng lại muốn lợi dụng lòng yêu nước của người dân vào việc lật đổ kẻ thù CS. Muốn thế phải tìm mọi cách xuyên tạc sự thật lợi dùng thời cơ kích động để hạ thấp giá trị của đảng CS, hạ thấp hình ảnh lãnh tụ của người dân. Họ có thể thành công phần nào. Tuy nhiên điều cốt lõi để quy tụ được lòng dân là họ phải tạo đựng được hình ảnh một thế lực, một lãnh tụ hơn hẳn đủ để thay thế CS thì họ không bao giờ làm được dù là 100 năm nữa.
Cái sai lầm to lớn nhất của các thế lực cờ vàng là sử dụng hình ảnh lá cờ vàng nô lệ con đẻ thực dân làm biểu tượng tập hợp quần chúng chống CS. Biểu tượng này chỉ có thể tập hợp những thành phần đã hưởng lợi từ chế độ cờ vàng chủ yếu là để hoài niệm. Ảnh hưởng của nó chỉ quanh quẩn trong cái cộng đồng này không bao giờ có sức lan tỏa. Cái lệ làng bất thành văn của cộng đồng cờ vàng đã tác động phần nào hiệu quả trong việc gây áp lực và trấn áp những phần tử bất đồng chính kiến do đó họ hoang tưởng rằng họ có sức mạnh cộng đồng và hoang tưởng họ là lực lượng đối lập được với CS. Chính cái hoang tưởng đó mới là nguyên nhân của cái sự lố lăng vô tiền khoáng hậu của giới cờ vàng.
Việc tiên quyết phải làm để có sức mạnh cộng đồng là phải tìm cách thống nhất tư tưởng và hành động ngay chính trong cộng đồng của họ thì họ loay hoay gần 40 năm nay không bao giờ có đựợc giải pháp. Điều duy nhất họ cùng nhận định và công nhận giống nhau là sự chia rẽ nghiêm trọng trong cộng đồng của họ. Từ chỗ chia rẽ nên anh nào cũng muốn lôi kéo về phe mình những phần tử chống phe nhóm khác tạo thành một ma trận chống nhau vô cùng bát nháo. Chỉ một cuộc tiếp xúc báo chí với viên lãnh sự CS đủ để gây lọan cả lên. Anh thì cho đó là tạo diễn đàn cho CS, anh thì nói cần phải vào hang cọp xem cọp nó ra sao, anh thì nói phải chuyển hướng và đối thoại. Rốt cuộc anh nào cũng là hề.
Những anh hề này vẫn tự cho là phe nhóm mình mới là thế lực để CS phải dè chừng. Phải chống như mình mới đúng, thằng nào không chống như mình là việt gian, là thân cộng. Quyền tự do chửi nhau ở Mỹ đã biến cộng đồng cờ vàng thành cái chợ Cầu Muối ngay tại đất Mỹ. Anh nào có phương tiện truyền thông thì anh đó có ưu thế về cái mồm. Anh nào thất thế thì chơi đểu, ném đá giấu tay, thách đấu giang hồ, đâm bánh xe trả đũa, nhổ nước bọt vào mặt nhau. Anh nào cũng phải vũ trang cái lý lich nạn nhân CS thật hoành tráng để khẳng định lập trường. Nếu chưa đủ đô thì mua đồ lính sida mặc vào. Anh nào không đi lính thì đeo cái tên trước ngực giống như anh bán thịt chó treo cái đầu chó chưa đủ, phải để bảng hiệu người ta mới biết đang rao thịt chó.
Dân cờ vàng thường bàn tới chuyện đao to búa lớn là đối thoại với CS. Cứ như họ là một thế lực đối lập ngang hàng với chính quyền VN. Tuy nhiên, khi bàn đến chuyện “đối thoại “ với CS thì anh này đẩy anh kia, hỏi trong “cộng đồng” thì cũng chẳng chỉ ra đuợc anh nào. Đơn giản là xưa nay họ chỉ biết tố cáo vu vơ vô căn cứ, hùa nhau xuyên tạc chứ làm gì có lập trường mà đòi đối thoại. Quanh quẩn chỉ có những đòi hỏi nhân quyền dân chủ vớ vẩn tố cáo chính quyền VN bán đất bán biển mà không biết đọc cái bản đồ thì đối thoại cái nỗi gì.
Hội đoàn cờ vàng hải ngoại thuờng xuyên nói đến việc báo chí VN không được tự do, phải đi theo lề phải nói theo tiếng nói của đảng. thế mà đảng CS lại chẳng bao giờ dùng cái công cụ tuyên truyền khổng lồ ấy để chống lại lá cờ vàng của họ, Rất đơn giản để hiểu chính quyền VN ý thức được rằng họ đã dùng sức mạnh quân sự để loại trừ xong cái chính quyền dưới bóng là cờ này và loại luôn cả kẻ đỡ đầu thì không thể có thế lực nào có thể dùng lá cờ này để khôi phục lại cái chế độ đã chết. Họ không cần quan tâm đến những chống đối lẻ tẻ, không cần đến súng đại bác để bắn một con ruồi.
Mang quốc tịch Mỹ, ăn welfare của Mỹ không có một tí đóng góp gì cho đất nước thế mà đất nước dân tộc càng no cơm ấm áo họ càng tức, càng mạnh lên họ càng thù . Họ ngăn cản đồng hương gửi tiền về quê, tẩy chay hàng Việt, hô hào chống đối thương mại với Mỹ mà mồm thì chứ xoen xoét yêu nước thương nòi. Tàu nó gây hấn thì họ chỉ có một giọng duy nhất là tố chính quyền VN khiếp sợ Tàu, khấn vái cho Tàu nó đánh sống chết mặc bay. Luận điều của họ là cứ Tàu nó gây hấn là phải đánh trả. Nếu đó không phải là kiểu khích tướng kiểu giang hồ thì rõ ràng đó là sự ngu dốt không thể biện minh.
Bọn Polpot tấn công Tây Nam tổ quốc liên tục hơn một năm trời, tràn vào nội địa hơn 10 cây số ta vẫn kiên trì nhẫn nại không nổ một phát súng, đánh động thế giới và thuyết phục ngoại giao. Nhiều đơn vị quân đội đã phản ứng đòi tấn công nhưng những nhà chiến lược VN vẫn kiên trì ngoại giao để tránh đổ máu. VN sợ Pol pot chăng? Chẳng có tên cờ vàng nào nói như vậy. Cho đến khi bọn Polpot gây tội ác thì việc dùng vũ lực mới đựợc tính đến. Ngay sau khi được phát động, Cả triệu lá đơn tình nguyện bảo về biên giới Tây Nam đuợc gửi cho Đoàn Thanh Niên Cộng Sản HCM. Lòng yêu nứớc và căm thù đã tiếp sức mạnh cho quân đội đập tan bọn khát máu Polpot trong vòng có 1 tuần.
Quan thầy Tàu mở mặt trận phía Bắc để cứu nguy cho Polpot và tính toán rằng VN phải rút quân ở Kampuchia về tiếp ứng nhưng tất cả đã quá muộn, Bọn Tàu tính toán với quân chính quy áp đảo, bất ngờ sẽ tiến đến Hà Nội trong 72 giờ nhưng chúng lầm to,không cần tiếp ứng chỉ dùng dân quân địa phương quan thấy Tàu cũng phải tháo chạy và đệ tử cũng bị đập tan nát như lũ cờ vàng 4 năm trước. Biết bao nhiêu xuơng máu của quân đội và đồng bào đã đổ xuống để bảo vệ đất đai tổ quốc. Lúc đó lũ cờ vàng ở Mỹ thì vác “hồn thiêng sông núi “ ra sức cầu nguyện cho “Tàu tràn vào Hà Nội, Miên đánh đến SaiGon” chuẩn bị cho mộng quang phục cờ vàng.
Giới cờ vàng hô hoán là Nguyễn Tấn Dũng, Nguyễn Minh Triết đã ăn tiền của Tàu nên há miệng mắc quai không dám lên tiếng. Một suy luận có vẻ hợp lý nếu nghĩ đảng CS là đảng của riêng những ông này. Cho là những ông này có thể khuynh loát đảng CS muốn làm gì thì làm như đảng Cần Lao của Ngô Đình diệm xưa kia. Họ suy luận xưa kia ta làm tay sai cho Mỹ thì CS phải là tay sai của Tàu. Xưa kia Mỹ nó bảo gì ta không dám cãi thì CSVN cũng thế phải nghe lời Tàu. Trong giới cờ vàng khoái chí truyền nhau câu nói” theo Tàu thì mất nước, theo Mỹ thì mất đảng” để đề cập đến đảng CSVN. Cái não trạng nô lệ nó như thế. Suy từ bụng ta phải “theo” Mỹ mới sống Mỹ buông ra chưa đầy tháng đã chết cho nên dùng cái não trạng đó suy ra bụng nguời là điều quá dễ hiểu.
Sách trắng quốc phòng VN đã nêu rõ VN cóc có theo thằng nào và cũng cóc có chống thằng nào nhưng cũng đừng thằng nào hòng đụng đến chủ quyền và độc lập VN. VN ủng hộ một nước Tàu thống nhất không công nhận Đài Loan nhưng vẫn mở của cho anh Tàu con này vào làm ăn mà anh Tàu lớn có tức cũng cóc làm gì được. Ủng hộ Palestine nhưng vẫn mua tên lửa israel. Viện trợ cho Bắc Hàn nhưng chơi với Nam Hàn. Ca ngợi láng giềng anh em hữu nghị với anh Tàu nhưng mời chiến hạm Mỹ vào nhà chơi. Anh em đấy, láng giềng đấy nhưng tàu ngầm mãy bay tên lửa thì mua của Nga, của Ấn độ của Pháp. VN mua tàu ngầm Kilo, máy bay Su30K2 xịn hơn của nó, tức lắm nhưng chỉ biết bày tỏ “quan ngại” vì khúc xương bển đông càng trở nên khó gặm.
Giới cờ vàng thường rêu rao với nhau có vẻ khinh miệt là CS chống Mỹ xâm lược nhưng lại không chê đồ Mỹ, học hành cũng lùa SV qua Mỹ đào tạo và cho đó là sự nhục nhã. Đầu óc nô lệ làm sao hiểu được là thành tựu khoa học kỹ thuật dù của bất cứ nước nào đều là tài sản nhân loại và được chia sẻ cho cả thế giới. Nước Mỹ sở hữu những tài sản đó và hưởng lợi từ tài sản đó qua sự trao đổi với thế giới. Nó khác hoàn toàn với tài sản nứớc Mỹ đem ban ơn cho đàn em tay sai cờ vàng trước đây và dùng tài sản đó nuôi nấng dân welfare cờ vàng tốn kém ngày nay mà không hề sinh lợi cho nước Mỹ.
Điều nhục nhã nhãn tiền là dân cờ vàng bị Mỹ nó chửi thì câm như hến. Tờ OCregister.com đã phải dùng những từ “ngu xuẩn”, “ thiếu giáo dục” để chửi dân cờ vàng nhưng sợi thần kinh xấu hổ của dân cờ vàng nó đứt quá lâu rồi nên có biết nhục là gì đâu. Từ những cuộc biểu tình chống lá cờ đỏ sao vàng ở trường USC, trên tờ OCRegister đã có những ý kiến của các sinh viên Mỹ viết về dân cờ vàng như sau:
"Bạn có biết không. Ngu xuẩn là chính danh. Pháp và sau đó là Mỹ đã huấn luyện những người ngu dốt để phục vụ cho chúng. Công việc của họ là đánh hơi ra những kẻ nào chống chủ của họ, cộng sản hay không. Họ gọi bất cứ người nào chống lại sự thống trị của ngoại bang là “cộng sản” và cầm tù và giết người đó. Đó là tại sao họ không được sự ủng hộ của dân chúng. Đó là tại sao khi Mỹ tháo chạy thì họ cũng phải tháo chạy. Chế độ Saigon không có ngay cả sự ủng hộ của binh sĩ của mình, đó là tại sao mà chỉ có trong vòng 55 ngày mà quân đội miền Bắc có thể kiểm soát hoàn toàn Nam Việt Nam trong chiến dịch Hồ Chí Minh năm 1975. Một điều mà cái guồng máy chiến tranh lớn nhất trên thế giới không thể làm nổi dù rằng đã làm cả mười năm, đã giết cả triệu người, đã thả 8 triệu tấn bom và đã trải 70 triệu lít chất khai quang màu cam.
Cho đến ngày nay, suốt cuộc đời của họ dính cứng vào cái trạng thái tâm lý đó. Họ nghĩ rằng nếu họ cứ kiên trì hô to những khẩu hiệu trống rỗng như vậy thì họ sẽ được sự ủng hộ để họ đi hiếp đáp những người khác ở trên đất Mỹ này, và lạ lùng thay họ đã thành công. Điều này chứng tỏ một điều. Còn rất nhiều người ngu trên đất Mỹ.
Những người biểu tình chống đối có biết rằng trong thế giới ngày nay mà lên án một người nào là cộng sản thì thật là ngu xuẩn không? Nó đã quá lỗi thời và chứng tỏ là các người thiếu giáo dục.
1000 sinh viên Mỹ gốc Việt học ở USC đúng khi nói rằng lá cờ đỏ sao vàng không đại diện cho họ. Đó là vì lá cờ ba màu đỏ, trắng, và xanh (cờ Mỹ) đã đại diện cho họ ở mọi cơ sở liên bang, tiểu bang, quận, và các công sự trong thị trấn.
Các người không có quyền bảo USC hay bất cứ ai về vấn đề lá cờ nào mà họ muốn treo. Đó không phải là một đặc quyền mà là quyền đã tranh đấu để có được. Nếu những người chống đối muốn lá cờ cũ của Nam Việt Nam được treo thì các người phải ở lại trong nước và chiến đấu [nếu thắng thì đương nhiên lá cờ đó là cờ của quốc gia Việt Nam]. Miền Bắc đã ở lại và chiến đấu và họ đã được cái họ muốn. Sự kiện là điều này không xẩy ra cho miền Nam và ngày nay chúng ta đang ở năm 2008.
Các người muốn gì nữa từ nước Mỹ? Các người muốn chúng tôi gây một cuộc chiến khác với Việt Nam?"
Nguyên văn: “You got it. Ignorant is the word. France and later the US had trained these ignorant people to serve them. Their job is sniffing out their people who is against their masters, communist or not. They would call anyone opposes foreign domiation “communist” and jail and kill them. That’s why they didn’t have any support from the population. That’s why when the US run, they had to run too. The Saigon regime didn’t even have the support of its own soldiers, that’s why it took only 55 days for the North Army to take total control of South Vietnam in the Ho Chi Minh Campaign in 1975. Something that the biggest war machine this world has ever seen couldn’t do in ten years despite killing millions of people, dropping 8 million tons of bombs anf 70 million liters of Agent Orange.
All their lives until this day, they’re stuck in that mentality. They think if they chant those empty slogans often enough they will get the support they need to bully others here in the US, and surprisingly they did succeed. That proves one thing. There’re a lot of ignorant people in the US ‘ population too.
Do you protestors realize how ignorant it sound to utilize and accuse someone of being a communist in today’s world? It’s outdated and clearly demonstrates your lack of education.
The 1000 USC American Vietnamese students are correct to state that the Red flag with the star doesn’t represent them. It is because the red, white, and blue represents them in every federal, state, county, and city building.
You have no right to tell USC or anyone of that matter to fly what flag they want to. It is neither a privilege but a right that was given and fought for. If you protestors wanted to the old South Viet Nam flag to fly you should have stayed and fought. The North stayed and fought and they got what they wanted. The facts remains for the South that didn’t occur and we are here now in 2008. What else do you want more from the US? Do ou want us to wage another war against Vietnam?”
Điều đáng nói là cái “ngu chính danh” đó lại lây nhiễm trong giới cờ vàng như dịch tả, làm tê liệt lý trí chỉ biết lập lại như con vẹt những gì tuyên truyền để sướng với nhau. Hết sướng với cách mạng hoa nhài đến sướng cái vụ Tàu nó gây hấn tưởng tượng ra CSVN sắp chết đến nơi rồi. Những cái “sướng” như thế luôn nằm trong cái “ngu chính danh” mà Mỹ nó chửi.
Xích Lô Việt

Chúng nó là cái giống gì?